Đó là ông La Thành Nghệ. Nếu nói đến những nhà tỷ phú trong ngành dược ở Sài Gòn thời trước 1975, ông không phải là nhân vật hàng đầu, chẳng hạn nếu so sánh với những nhân vật như Nguyễn Cao Thăng, chủ nhân Công ty OPV – công ty dược phẩm lớn nhất miền Nam thời đó; hay Tiến sĩ vật lý, phó trưởng khoa đại học Dược khoa Sài Gòn, Tổng giám đốc Cộng Hòa Dược Cuộc (SIFAP) Đào Hữu Giao; hay như dược sĩ Nguyễn Thị Hai, chủ nhân của hãng dược phẩm Trang Hai, vợ của viên đại tá Văn Văn Của một thời là Đô trưởng Sài Gòn.
Ông La Thành Nghệ là một dược sĩ vào loại cựu trào của Việt Nam. Ông học dược ở Pháp, tốt nghiệp loại ưu. Ông về nước sau 1945 và mở pharmacie tại đường Tự Do, Sài Gòn (nay là Đồng Khởi), sau một thời gian, phát triển thành viện bào chế mang tên Laboratoiri La Thành, là một trong những viện bào chế dược phẩm lâu đời nhất Sài Gòn.

Viện bào chế La Thành sản xuất nhiều loại dược phẩm khác nhau như kháng sinh, thuốc bổ vitamin các loại, thuốc cảm sốt, thuốc trị bệnh da liễu. . .Nói chung các chế phẩm do hãng này sản xuất đều có chất lượng cao, được người tiêu dùng và giới bác sĩ tín nhiệm.
Tuy nhiên, mặt hàng mang lại cho viện bào chế La Thành lợi nhuận đáng kể, biến chủ nhân của nó thành một nhà tỷ phú, một dược sĩ danh tiếng, lại là một sản phẩm đơn giản, thông dụng, ít ai ngờ đến, đó là thuốc đỏ – một loại dung dịch hóa học mà người ta vẫn thường dùng để sát trùng các vết thương.
Điều thú vị và đáng ngạc nhiên hơn là để sản xuất ra mặt hàng này, nhà sản xuất cũng chẳng phải tốn kém để đầu tư máy móc thiết bị hiện đại, các công đoạn sản xuất lại hết sức đơn giản, giá thành lao động đầu tư cho một sản phẩm rất thấp, lại có đủ điều kiện để khi cần thiết sản xuất ra một khối lượng khổng lồ và đặc biệt là thị trường tiêu thụ của nó thật mênh mông vô tận.
Điều đáng khâm phục là ý tưởng kinh doanh độc đáo và đầu óc nhìn xa trông rộng của chủ nhân đã sáng chế ra mặt hàng này.
Mọi sự khởi đầu từ việc ông La Thành Nghệ có được giấy phép độc quyền nhập khẩu hóa chất Mercure Crôme dưới cả hai dạng chất lỏng và bột. Với một lít dung dịch đậm đặc của Mercure Crôme, viện bào chế La Thành cho ra khoảng 40.000 chai thuốc đỏ loại 25ml; còn với loại bột, chỉ 1g Mercure Crôme pha trong 1 lít nước cất là sẽ có một lít thuốc đỏ loại thường dùng trong y tế hẳn hoi.
Như thế, nhà sản xuất chỉ còn việc đặt các nhà sản xuất thủy tinh thổi vỏ chai theo từng loại dung lượng từ 25ml đến 100ml và các nhà in, in nhãn hiệu với cách chỉ dẫn sử dụng. Viện bào chế chỉ phải thực hiện các công đoạn cuối cùng là chiết vào chai, đóng nút, dán nhãn và. . .tung ra thị trường.
Thị trường thì hết sức rộng lớn. Thuốc đỏ có thể bán từ các nhà thuốc Tây sang trọng cho tới các tiệm tạp hóa hẻo lánh ở các vùng thôn quê. Cách sử dụng cũng quá ư đơn giản, không cần tới một lời chỉ dẫn nào của thầy thuốc.
Khi người ta phạm một vết thương, dù là vết trầy xước sơ sài hay những vết thương hiểm nghèo do súng đạn gây ra, thì động tác đầu tiên là đổ lên những vết thương ấy một ít thuốc đỏ để nó bảo vệ vết thương khỏi sự nhiễm trùng.
Còn công dụng của nó ư? Chẳng bao giờ người sử dụng hỏi tới hay luận bàn hay dở. Bởi vì, tác dụng chữa trị tiếp theo đã thuộc về những thứ thuốc khác. Ngoài tính phổ thông của nó trên thị trường, sự xuất hiện của thuốc đỏ La Thành Nghệ ở nước ta nằm vào thời điểm hai cuộc chiến tranh kéo dài liên miên, thành ra ông cũng là người cung cấp độc quyền cho hệ thống bệnh viện và quân y viện của quân đội Sài Gòn.
Cả ngành Dân, Quân y trong kháng chiến cũng tìm mọi cách để mua cho được loại chế phẩm này từ các thành thị miền Nam.
Chúng ta thử làm một con tính để thấy nguồn lợi nhuận khổng lồ mà ông La Thành Nghệ thu được từ thuốc đỏ. Mỗi chai thuốc đỏ loại 25ml giá thành là 100 đồng (tiền Sài Gòn), giá bán sỉ là 150 đồng, lãi mỗi chai 50 đồng, 50đồng thời đó chẳng phải lớn lao gì, nhưng tỷ lệ thu lời của ông La Thành Nghệ đã đạt tới 50%.
Còn người tiêu dùng thì chẳng có ai phàn nàn là nó mắc hay rẻ, bởi không có thứ sản phẩm cùng loại nào để so sánh. Trong khi đó, nếu sản xuất một viên Ampiciline, giá thành là 200 đồng, nhưng cũng chỉ bán được 250 đồng, vì còn phải cộng thêm nhiều chi phí khác như khấu hao máy móc thiết bị, bao bì bảo quản phức tạp nên chi phí cao, nhân công lao động cũng nhiều hơn mà lãi suất tính ra cũng chỉ đạt 25%, trong khi đầu tư máy móc thiết bi rất nặng vốn. Đã vậy, các loại thuốc thông dụng này còn phải chịu sự cạnh tranh gay gắt của nhiều loại thuốc cùng chủng loại khác, của nhiều hãng dược phẩm khác.
Thêm một phiều toái nữa là nó phải chịu sự kiểm định gắt gao của các cơ quan quản lý và cả người tiêu dùng, vì công dụng của nó phải được thể hiện cụ thể. Đó là chưa nói đến việc lúc nào trên thị trường cũng có các loại thuốc ngoại nhập cùng loại nhưng chất lượng cao hơn nhiều. Vì thế, lượng sản phẩm xuất xưởng cũng chỉ hạn chế trong khả năng tiêu thụ nào đó. Trái lại, thuốc đỏ hoàn toàn không có những hạn chế trên.
Là người giàu có, thành đạt, đủ mọi điều kiện hưởng thụ, nhưng La Thành Nghệ không sống xa hoa và sa đà vào ăn chơi như nhiều người giàu có thời đó.
Ông dành nhiều thời giờ, tiền bạc cùng với em trai là bác sĩ La Thành Trung tích cực trong các hoạt động từ thiện, cứu trợ cho các nạn nhân bị thiên tai, chiến tranh, chẩn bệnh và phát thuốc cho người nghèo. Bác sĩ La Thành Trung có một thời là Chủ tịch Hội Chữ Thập đỏ chi hội Nam Việt Nam.
Ngoài những đóng góp phục vụ cho Hội Chữ thập đỏ, ông còn là hội viên của nhiều hội từ thiện quốc tế.